CHA MẸ SINH CON, AI SINH TÍNH?
Tâm lý giáo dục theo Ca dao, tục
ngữ
Trần Mỹ Duyệt
Trên những
chương trình, những diễn đàn xã hội, thỉnh thoảng chúng ta vẫn
thấy đề cập đến các đề tài như thai giáo, dưỡng nhi, sinh con ra
và nuôi con làm sao cho hợp với khoa học. Thí dụ, cho con bú mấy
lần trong ngày, sữa mẹ tốt hay không tốt, thay tã lót, và cách
chọn lựa dinh dưỡng làm sao cho con chóng lớn, phát triển, và
khỏe mạnh. Nhưng ít thấy những đề tài đề cập đến giáo dục dựa
trên ảnh hưởng tâm lý phát triển nơi các em. Hậu quả là tuổi
thơ, tuổi trẻ được lớn lên, phát triển theo một chiều hướng tích
cực về thể lý, trí óc, mà thiếu những hướng dẫn về tâm lý, đặc
biệt, tâm lý giáo dục.
Trong văn chương
bình dân của người Việt có những câu bao gồm kinh nghiệm sống
của những người đi trước rất tâm lý, rất hay và ý nghĩa. Thí dụ,
trong lãnh vực giáo dục chẳng hạn, mỗi khi ngụ ý so sánh con cái
giống cha hoặc mẹ, người ta thường ví: “Cha nào con nấy.” Người
Mỹ cũng có câu: “Like father like son.” “Like mother like
daughter.” Hoặc khi muốn nhấn mạnh đến những thành đạt, những
kết quả mà con cái gặt hái đem lại vinh dự cho cha mẹ, thì người
ta bảo: “Hổ phụ sinh hổ tử.” Trong những trường hợp như vậy,
người làm cho cha mẹ thường cảm thấy mát lòng, hãnh diện.
Nhưng nếu ngược
lại thì sao? Có những trường hợp mà con cái làm cho cha mẹ ăn
không ngon, ngủ không yên, phải bán nhà, bán đất để chạy chữa,
lo lót cho chúng tránh ngồi tù vì những việc làm phạm pháp, vì
cờ bạc, ma túy, và vì những thói hư, tật xấu khác. Đối với những
đứa con này, để làm giảm bớt sự phiền muộn đang xét nát tim can,
phần đông cha mẹ hoặc phụ huynh phải tự an ủi: “Cha mẹ sinh con,
trời sinh tính.”
Còn trong những
trường hợp mà cha mẹ ăn ngay, ở lành, làm nhiều điều đức hạnh mà
con cái vẫn hư thân mất nết, vẫn đem lại những phiền toái, buồn
khổ, bất hạnh cho cha mẹ thì sao? Ông trời có sinh ra cái “tính”
của những đứa con này không? Tuyệt đối là không. Trong niềm tin
dân gian, Ông Trời vẫn là Đấng thiện hảo, tốt lành tuyệt đối,
nên không thể làm ra cái xấu, tội lỗi, hoặc khuyết điểm.
Như vậy, nếu một
đứa trẻ sau này lớn lên có những hành vi vô đạo, thiếu giáo dục,
hoặc đi vào con đường hư hỏng thì cha mẹ liệu có vô can, hoặc
hoàn toàn là người không có một phần trách nhiệm? Tiếp theo đây
là một số hình ảnh mà người xưa đã kinh nghiệm trong ứng dụng
thực hành việc giáo dục, tạm gọi là tâm lý giáo dục nhân gian.
“Rau nào sâu
nấy”:
Người xưa khi nói câu: “Rau nào sâu nấy,” mục đích ám chỉ mối
liên quan huyết thống giữa cha mẹ và con cái. Câu nói này nếu
hiểu theo khía cạnh khoa học, là hậu quả di truyền. Theo đó, đứa
trẻ sinh ra thừa hưởng một số những yếu tố di truyền về thể lý,
tâm lý, và trí khôn ngoan của cha mẹ. Nhưng những yếu tố này cần
được hướng dẫn để chúng phát triển nhờ vào giáo dục gia đình,
học đường, cũng như xã hội, trong đó cha mẹ, phụ huynh là người
giữ nhiệm vụ chính yếu và quan trọng nhất.
Giống như hầu
hết các lãnh vực khác, tư cách, nhận thức, và trí thông minh của
con người là một cấu trúc phức tạp bị ảnh hưởng bởi di truyền và
những yếu tố của môi trường.
Nhưng theo các
nhà khảo cứu thì di truyền của người mẹ xác định sự khôn ngoan
của một đứa trẻ chứ không phải là do người cha. Điều này xảy ra
vì người mẹ mang hai X chromosome, trong khi người cha chỉ có
duy nhất một X chromosome. Khám phá này có thể làm cho những
người cha không vui. Bù lại ông trời lại cho họ được quyền quyết
định về việc sinh con trai hay con gái.
Tuy nhiên, khảo
cứu cũng chỉ rõ rằng di truyền không chỉ là xác định sự khôn
ngoan - chỉ có 40-60% trí thông minh đến từ di truyền, còn lại
tùy thuộc ở môi trường. [1]
“Gieo gì gặt
nấy”:
Nếu trí thông minh của người con không thừa hưởng bởi di truyền
từ người cha, thì những việc làm của họ lại ảnh hưởng rất lớn
trên đời sống của con cái, vì vai trò và tiếng nói của họ trong
gia đình. Một người cha nhậu nhẹt, say sưa, bài bạc, ngoại tình,
thì không thể đòi hỏi người con là người đàng hoàng, lương
thiện, có tư cách và trách nhiệm. Đứa trẻ học chửi thề, văng tục
từ trong gia đình trước khi chúng bắt chước bạn bè ngoài xã hội.
Những thói xấu khác cũng nảy sinh tương tự như vậy. Về phía
người mẹ, những hành động như bừa bãi, lười lĩnh, keo kiệt,
chanh chua, bốp chát với chồng, ghen tỵ, cũng rất ảnh hưởng đến
lối sống của con cái sau này.
Trong tâm lý
giáo dục có một nguyên tắc tuy khó thực hiện, nhưng rất hữu
hiệu: “Giáo dục đứa trẻ 20 năm trước khi nó chào đời”. Tại sao?
Điều này được giải thích rằng người cha, người mẹ phải tự giáo
dục mình trước để có khả năng giáo dục con mình khi chúng được
sinh ra.
“Dạy con từ thuở
lên ba”: Kinh nghiệm giáo dục của người
xưa, nếu đem vào ứng dụng theo tâm lý giáo dục thời nay thì rất
hợp thời, và rất đúng. Theo các nhà tâm lý giáo dục, thời gian
tốt nhất để giáo dục một đứa trẻ là khi nó lên ba. Ở thời điểm
này trí óc đứa trẻ bắt đầu hoạt động như một chiếc máy ghi âm
cực tốt, có khả năng ghi lại tất cả những gì chúng thấy, chúng
nghe từ chung quanh cuộc sống. Các em bắt đầu:
-Tò mò, khám phá
qua sách vở.
-Thích nghe đọc
sách.
-Kể lại một câu
truyện quen thuộc.
-Hát một bài hát
bằng chữ cái.
-Làm những dấu
hiệu như chữ viết.
-Nhận ra chữ cái
đầu của tên mình.
-Biết là viết
thì khác với vẽ.
-Bắt chước đọc
to tiếng một cuốn sách. [2]
Kinh nghiệm thực
tế đã chứng minh điều này. Khi lên 3, đứa trẻ có thể hành động
và nói năng, cũng như có những câu hỏi khiến bố mẹ phải ngỡ
ngàng. Nhưng nếu để ý suy nghĩ, thì hầu hết những ngôn ngữ và
hành động đó, chúng đã nghe, đã thấy cha mẹ nói hoặc làm trước
đó.
Nếu thời gian từ
lúc đứa trẻ sinh ra đến khi lên ba là thời gian chúng quan sát,
ghi nhận và cảm nghiệm được tình thương, sự âu yếm, chiều chuộng
của cha mẹ, thì lúc này khi lên ba cũng là thời gian chúng phát
triển về con người tự nhiên bằng những gì mà người thân nhất của
chúng đã cho chúng. Cha mẹ đừng tưởng mình có thể hành động, cãi
vã, hoặc nói năng bừa bãi trước mặt con cái ở tuổi này mà nghĩ
rằng chúng không biết gì.
Đây là tuổi mà
học đường là cái đầu gối của người mẹ.
“Bé không vin cả
gẫy cành”: Kinh nghiệm giáo dục này ứng
dụng với kinh nghiệm thực tế trong việc trồng và chăm một cây
cảnh. Nếu muốn uốn cây phải uốn khi còn mềm, còn non. Khi cây
hoặc cành đã lớn, đã ươn xa, vươn cao mà uốn chắc chắn sẽ bị
gẫy. Trong tâm lý giáo dục, đây là thời gian cây non của những
đứa trẻ.
7 tuổi, em bé có
thể nói dối, và nói dối rất chuyên nghiệp. Nếu cha mẹ là người
ưa hứa mà không làm đối với con cái, hoặc nếu cha mẹ dùng roi
vọt mà áp chế đứa trẻ, nó sẽ cho cha mẹ biết cái tài nói dối của
nó.
10 tuổi, em bé
không còn thích được vuốt ve, âu yếm, ôm ấp nữa. Chúng muốn
chứng tỏ rằng chúng đã lớn hoặc bắt đầu lớn. Điều này đồng nghĩa
với cá tính và con người tự nhiên của chúng bắt đầu phát triển.
Cành cây đã bắt đầu vươn dài và cứng cáp. Những gì cha mẹ làm,
hoặc chúng học được khi còn bé sẽ từ từ thành tập quán và trở
thành cá tính. Do đó, đây cũng chính là thời điểm giáo dục mà
cha mẹ phải đầu tư và bỏ nhiều thời gian.
13 tuổi, tuổi
bước vào thời gian nổi loạn, và ngương ngạnh. Thời gian đứa bé
muốn thách thức cha mẹ, thách thức luật lệ của gia đình, và muốn
chứng tỏ cái tôi của mình. Lúc này cha mẹ, phụ huynh không còn
dùng việc chửi mắng, đánh đòn, la lối, ngay cả khóc lóc để giáo
dục một đứa trẻ. Tất cả là do gương sáng, tình yêu thương, và sự
gần gũi của cha mẹ để ảnh hưởng đến một thời điểm quan trọng
trước khi cái tôi và cá tính của đứa trẻ thành hình.
“Gái 17 bẻ gẫy
sừng trâu”: Thời điểm của một cành cây đã
khó lòng uốn, và khó lòng bẻ. Nếu người làm vườn - cha mẹ hay
phụ huynh - mạnh tay hoặc thiếu kiên nhẫn sẽ làm gẫy cành cây.
Nhưng đây cũng
là thời điểm mà cha mẹ hay phụ huynh bắt đầu nhìn thấy hậu quả
giáo dục của mình bằng cách quan sát cách đứa trẻ sống, nói
năng, và đối xử với mình, cũng như với những người chung quanh.
Nếu bình tâm, cha mẹ sẽ nhìn thấy hình ảnh của mình, sẽ nghe
được tiếng mình, và sẽ nhận ra cung cách sống của mình.
Đứa trẻ bẻ gẫy
sừng trâu cũng có nghĩa là nó bắt đầu thoát ra khỏi sự kiểm soát
của cha mẹ, mặc dù chúng còn ở chung một mái nhà, nhưng thế giới
suy nghĩ, và hành động của chúng là thế giới riêng biệt. Nếu cha
mẹ đợi đến lúc này mới giáo dục, mới la mắng, mới khóc lóc, mới
than thở thì e là đã muộn.
Nhiều phụ huynh
đã thấy sợ hãi, lo lắng và buồn bã khi con cái ở tuổi này bắt
đầu vướng vào những tệ nạn xã hội như rượu, bia, xè ke, ma túy,
cờ bạc, băng đảng, hoặc bỏ đạo. Không cha mẹ nào muốn những điều
này xảy ra cho con cái, nhưng đó cũng là kết quả do những thiếu
sót trong việc giáo dục khi con cái còn trẻ, cộng thêm những gì
mà các chúng đã học được từ môi trường gia đình, môi trường học
đường, và xã hội.
“Tam thập nhi
lập”:
Về học vấn và kiến thức, con người có thể học đến già, nhưng
giáo dục thì phải tùy thuộc vào thời gian được dành riêng cho
việc này. Bàn về sự trưởng thành tâm sinh lý, kinh nghiệm người
xưa đã nói: “Tam thập nhi lập”. Như vậy, ở tuổi này con người đã
được coi là thành nhân và trưởng thành đủ. Và theo tâm lý, các
tính nết, bản chất một người coi như đã thành nếp.
Nhưng trong thực
tế có mấy người con ở với cha mẹ đến 30 tuổi? Xã hội hôm nay,
con cái chỉ mong sao đến 18 tuổi là ra ở riêng, tự tạo cho mình
một cuộc sống riêng tư. Do đó, có thể nói giáo dục gì, giáo dục
như thế nào, cha mẹ hay phụ huynh cũng chỉ có 18 năm để hoàn tất
công việc này. Đây là những năm con cái còn ở với mình, hoặc gần
gũi thân mật với mình.
Tóm lại, cũng
theo kinh nghiệm của tiền nhân, thì tuổi thơ, “Nhân chi sơ, tính
bản thiện.” Tuổi trước vị thành niên, hoặc muộn lắm bước vào
tuổi thành niên, là thời gian thuận tiện cho việc giáo dục đức
tính và tư cách của một đứa trẻ. Ít nhất, trong thời gian này
đứa trẻ còn trong trắng, ngây thơ, và dễ uốn nắn. Phụ huynh đừng
để thời gian này vượt quá khỏi tầm tay, rồi nhìn lại đổ thừa cho
ông trời!
_________
1. https://www.independent.co.uk ›
Science
2. Reading
Milestones (for parents). Duyệt lại do Cynthia M.
Zettler-Greeley, Ph.D.